Ló đầu ra là hai gương mặt lạ hoắc. Trong bóng đêm bập bùng, mưa
không ngớt, anh dụi mắt, hỏi có chuyện gì không? Người ta chỉ vô bảng
thông báo, khách du lịch vào Bagan phải đóng phí 15usd. Anh lờ mờ nhớ ra
hình như mình đã đọc thông tin này rồi. Cũng không nói gì nhiều nữa,
phần vì mệt, phần mưa tạt liêu xiêu hết cả màn đêm rồi. Vội vàng đóng
phí rồi leo lên xe, vẫn chiếc xe bán tải với cái thùng xe lắc lư trải
chiếu dơ hầy.
Đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Ba giờ sáng ở Bagan. Anh
lại tiếp tục không biết mình sẽ được chở đi đâu. Mưa thu réo rắt gõ vào
đêm những mịt mùng. Anh thiếp đi trong đêm lạnh và màn mưa thu ấy!
Anh
bạn lái xe ghé vào một tu viện. Đêm khản đặc trong tiếng của côn trùng
kêu, của những con bồ hóng theo ánh đèn xe loang loáng mà tủa về. Sư
thầy ra mở cửa. Anh tài xế bỏ dép ra, đi chân trần vào nhà rồi kỉnh lễ
với sư thầy. Anh ta quỳ xuống, lạy, thầy gật đầu anh mới đứng lên, ngoắc
anh vào trong. Đó là một căn phòng trống, khá rộng, sàn lót chiếu, mọi
thứ đơn sơ, mấy bóng đèn hột vịt đỏ choe choét soi những gương mặt ngái
ngủ. Anh nhấc nhẹ chân, sợ một tiếng động nhỏ thôi cũng làm cho nơi cửa
thiền bừng tỉnh dậy. Không ai nói gì, anh tài xế ra đi, anh ở lại, tự
tìm cho mình một chỗ trống - có rất nhiều chỗ trống, đèn tắt, sư thầy
lui vào nhà trong, anh nằm xuống, chưa nhắm mắt đã ngủ, giấc ngủ ăn mòn
từ sâu thẳm ở trong bụng ăn ra, húp trọn anh luôn.
Giấc ngủ ngắn
ngủi ba tiếng đồng hồ, muỗi vo ve làm bạn với anh trong suốt những canh
ngắn ấy. Anh trệu trạo nhớ là mình đã làm cách nào đó lôi được chai
thuốc chống muỗi ra ve vo khắp mặt mày chân cẳng, và nhiều khi buồn ngủ
quá rồi, mệt mỏi quá rồi thì tiếng muỗi kêu cũng như là tiếng đờn, ò e
te tí càng làm cho giấc ngủ thêm sâu. Như một phản xạ, anh bật dậy lúc
năm giờ sáng. Rọt rẹt dòm ra ngoài sân, thấy trời tối u u, chim đã kêu
rình rang, nhưng trong phòng thì vẫn tối hù. Sợ người tài xế đã đến,
không thấy mình thì người ta lại buồn nên anh giả bộ bước ra cửa, không
biết có phải phép hay không nên đâu có dám mở cửa bước ra đâu, cứ đứng
tần khân bên bậu cửa, lấp ló kiễng chân nhìn ra ngoài qua mấy khe cửa
xem thử coi có người đến hay chưa. Te rẹt ở đó chừng năm mười phút thì
có tiếng sư thầy ở nhà sau đi lên, mở cửa cho anh ra ngoài. Trời mờ mờ
tỏ, soi gương mặt sư thầy trẻ măng, hiền khô, anh cúi chào thầy, nói cảm
ơn rằng thì là duyên, duyên của mùa thu nên trên đường rong chơi phiêu
lãng cuối trời, may mắn làm sao anh được một đêm ngủ lại nơi thiền viện
này. Một thiền viện nhỏ, nép trong những vườn cây - thứ cây lá nhỏ xíu
xiu rất đặc trưng ở Bagan, và tiếng chim kêu rộn ràng, kéo một buổi bình
minh mùa thu về qua từng tiếng chim ca và hơi sương mờ ảo. Khuôn viên
của tu viện khá rộng, gồm nhiều căn khác nhau, làm bằng gỗ, mộc mạc và
đơn sơ. Sư thầy bảo anh ra ngoài sân sau, ở đó có bồn nước, anh có thể
vệ sinh cá nhân cho tỉnh táo. Thầy nói tiếng Anh rất tốt, giọng hiền từ,
dáng người thấp nhưng nhanh nhẹn. Anh cảm ơn rồi ôm của nả ra sân sau, ở
đó có vài nhà sư đang ... tắm. Họ mặc áo nâu sòng, tắm sáng, xả nước ào
ào. Anh thấy tự nhiên hỏi họ có nhà tắm không thì cũng... kỳ, nhưng tắm
trần như vậy thì thấy còn ... kỳ hơn nữa nên thôi, đánh răng, rửa mặt
rồi bước ra. Giấc ngủ ngắn ngủi của mùa thu làm cho anh lấy lại sức thấy
rõ. Hay cũng không biết nữa, ngủ ở chùa, nơi Phật tích này làm anh thấy
bình yên đến vô ngần.
Năm giờ hơn thì bác tài xế đến, lại một
gương mặt lạ hoắc. Nhưng chả hiểu sao anh cứ thấy mọi việc chả có gì
phải sợ, nơi đất Phật này, anh đâm ra tin tưởng người ta một cách vô
thần, không đắn đo, không suy nghĩ, cứ thế mà tin vào người. Cám ơn sư
thầy một lần cuối, anh vác ba lô vất lên xe, bắt đầu một ngày rong ruổi
thành Bagan. Anh chào hỏi chú tài xế, một người đàn ông trung niên,
không nói được tiếng Anh, mặc longi, không hút thuốc, vẻ ngoài khá bảnh
tỏn và sạch sẽ. Hỏi chú có bản đồ không? (ôi bản đồ, biết bao lâu rồi
anh chưa nhìn tới được cái bản đồ, ở Miến Điện này, hình như con người
ta không cần đến cái thứ ấy, cứ như có người đưa đường chỉ lối, chỉ là
đi. Anh thì thấy không có bản đồ, mình như một người mù.). Nói một thôi
một hồi chú mới hiểu được là anh cần bản đồ, lắc đầu, nói không có. Anh
hơi nản, không có thì thôi vậy. Sợ không kịp giờ đi ngắm bình minh, nên
chú tranh thủ chạy, lát sau anh mới biết, thì ra chú ấy quanh lại vài
cây số để về nhà mình, lấy cho anh cái bản đồ. Cái cảnh người vợ chú -
một người phụ nữ Miến Điện cực kỳ đẹp (mái tóc vấn, thoa thanaka, mặc
longi một màu rất nhã, đứng ở trước cổng căn nhà bằng gỗ, cái cổng dựng
lên thô sơ bằng mấy cái cây con con, quanh nhà là những vườn cây cổ thụ
in bóng, con đường đá đỏ đẹp mê hồn trong buổi sáng mùa thu trong lành.
Người vợ đón anh và chú bằng một nụ cười. Ôi người đàn bà ấy, trong cái
khung cảnh mờ ảo buổi bình minh hôm ấy, đã ngơ ngẩn cướp đi một nửa hồn
anh rồi!).
Đi ngắm bình minh. Sáu giờ, anh được chú chở đến một
ngọn tháp, không lớn lắm, đường vào đền là đường đất, cát lún phún theo
mỗi vòng bánh xe lăn. Anh không biết tên, có hỏi, nhưng chú trả lời anh
không hiểu, dò trên bản đồ thì do chưa quen nên không tìm ra được, nhờ
chú tra giùm thì chú chỉ là Ananda nhưng lúc đi về, anh kiểm tra đối
chiếu lại thì thấy không phải. Đền nằm có mình ên, có rất đông khách du
lịch tập trung trên đỉnh rồi. Những gương mặt người quen thuộc, hơn phân
nửa là những người đã cùng anh đi chung chuyến xe bus đêm từ Mandalay
đi Bagan tối hôm trước. Ai cũng bừng bừng khí thế ngắm bình minh ở một
trong những nơi được cho là đáng để ngắm nhìn mặt trời mọc nhất thế
giới. Anh leo lên mấy nhịp cầu tre (ý da), mấy bậc cầu thang, lên đến
đỉnh. Phóng tầm mắt nhìn ra bốn phía, một vùng rộng lớn, bạt ngàn tháp,
bạt ngàn những đồng không mông quạnh. Phía chân trời, mặt trời nhói lên
như đốm lửa, ráng đỏ ửng hồng, những tia nắng đầu tiên xiên xéo, nhảy
nhót nhẹ nhàng trên mỗi phiến đá, những phiến đá trăm năm. Cảnh đẹp đến
ngơ ngẩn cả lòng. Tiếng máy ảnh vang lên, tiếng người xuýt xoa xôn xao.
Anh chỉ im lặng, như nuối tiếc như muốn ngừng lại phút giâ này. Bình
minh mùa thu Bagan, nắng đã lên, mặt trời rựng hồng phía cuối chân trời.
Không vội vã, anh bước những bước cuối cùng ở bậc thang xuống đất. Bắt
đầu hành trình rong ruổi Bagan.
Chùa ở Bagan nói riêng hay Burma
nói chung thường có bốn cửa: Đông Tây Nam Bắc dẫn vào đền. Đền cũng có
bốn ngã, mỗi ngả lại dẫn đến Ban thờ với tượng Phật. Chánh điện luôn có
tượng Phật to đep nhất. Không giống chùa ở Việt Nam, sẽ có cửa Chánh môn
với Nam tả nữ hữu, một Ban thờ Chánh điện, phía sau thờ Cửu huyền thất
tổ hoặc Thờ Chư vị Lão tổ. Khách hành hương đến bái lễ Phật sẽ phải để
chân trần, tâm tịnh không vướng bụi trần. Ở đó người sẽ kỉnh lễ Phật
theo tuần tự Kora, vòng tròn từ trái qua phải. Khách có thể mua những lá
vàng để dâng lên Phật qua nhiều ngày tháng. Có cả hoa nhưng khác với
Phật tử ở Lào hay Cambodia, ở đây người ta không thắp hương lễ Phật.
Ngoài sân chùa thường có ba Chuông đồng. Ở đó, khách hành hương hay đến
thỉnh chuông. Tiếng chuông chùa trầm bổng dễ lay động lòng người trong
tiết trời hanh khô của mùa thu đang chậm rãi qua.
Anh đi qua
những ngôi đền Bagan, nao lòng với những hành lang dài, chân trần mát
rượi trên nền gạch trăm năm, gió thổi lồng lộng. Đền Htilominlo được xây
dựng bằng đất, đẹp và buồn, như những niềm riêng xưa lơ lắc, một thời
vàng son, một thời rực rỡ. Qua những thâm trầm, nay đền vẫn còn đó, vẫn
đẹp, nhưng buồn. Đền Swezigon Phaya: đền đẹp với những hành lang gấp
khúc, buổi sáng nắng vừa lên, vắng vẻ heo hút. Đền Ubethein cũng được
xây bằng đất, đền nhỏ thôi, tượng Phật cũng bằng đất nung, khác với các
chùa khác, do chùa nhỏ, chỉ có hai mặt, cảnh phía sau đền đẹp đến nao
lòng vì nhìn ra xa là thấy cả một rừng tháp khác. Cũng không thể bỏ qua
Ananda Phaya, quần thể chùa lớn và còn giữ được nguyên vẹn nhất trong
tổng thể hơn hai ngàn đền chùa ở Bagan này. Ananda với hai vòng trong
ngoài, là nơi thu hút rất đông khách du lịch đến đây chiêm ngưỡng, là
nơi dân bản địa ngày đêm đến bái vọng. Ngôi đền bên sông Buphaya, với
ngọn tháp tròn, rất đẹp màu vàng chóe nằm mé rìa sông. Và Gaw Daw Palin
Phaya làm anh nhớ mãi không phải vì bên ngoài chùa người ta bày ra không
phải là những quầy bán kinh sách, bán quà lưu niệm, bán thanaka... mà
là những mặt hàng thời trang, là mắt kiếng, đồng hồ, nước hoa... Gaw Paw
Palin đón anh bằng cơn mưa mùa thu chiều bất chợt. Anh ướt không đáng
kể nhưng lúc chạy vội trốn cơn mưa thu, chạy vào chánh điện anh bị trượt
chân, té một cái ầm ngay trước cửa chùa. Và thì chào Phật bằng một cách
không được chính thống cho lắm, thì thôi mưa trơn và bước vội. Mưa to
quá, nước mưa xối xả tạt vào chùa. Rất đông du khách lỡ bước nên tập
trung vào chùa, anh tìm một góc nhỏ thanh tịnh nào đó, chợp mắt một tí
trước thời tiết mưa nắng bất chợt thế này. Rồi thì Sulamani Pahto, một
ngôi chùa rất lớn, anh đến chùa trong tâm trạng gấp rãi vì chuẩn bị nắng
tắt sang sông, anh cảm nhận Sulamini Pahto một cách vội vàng, ngôi đền
dở dang vì trời ơi sau một ngày dầm mưa và dãi nắng, con người ta đâm ra
ớn nhợn với những đền chùa buồn hiu hắt đậm dấu trăm năm, nghìn năm như
thế này.
Bagan chào anh bằng cơn mưa khuya. Bagan cũng trêu ghẹo
anh bằng một cơn mưa chiều bất chợt. Anh sợ, sợ mưa giăng trời thế này
rồi làm sao mà ngắm nắng về trên những giọt hoàng hôn mùa thu trên những
ngọn tháp Bagan trăm nghìn năm này? Nhưng mưa đến nhanh rồi cũng tạnh.
Nắng lại lên, lại xỏ xiên qua những vòm quá, hong mái tóc người con gái
Miến, thanaka lại được dịp rựng lên trong nắng. Phía chân trời có cầu
vồng, lúc anh chạy ngang qua Shwenanday Phaya - một ngôi đền rất to và
đẹp, ở cánh đồng dẫn vào đền, anh hú lên cầu vồng, ôi cầu vồng, rực rỡ
trong nắng chiều quạnh quẽ, màu sắc này như ám ảnh, một cảm giác ám ảnh,
tựa như qua một cơn mưa, mùi của đất váng lên trong không khí quyện với
mùi của cây cỏ, của mùa thu, của không gian bình yên tĩnh tại Bagan,
làm cho lòng người thơ thới. Là tiếng của mùa thu đang vẫy gọi, là tiếng
của trái tim rung lên trước khoảng khắc tuyệt vời của đất trời. Từ
Dhammaya Gyi Pahto, anh lặng ngắm mặt trời lặn. Binfh minh và hoàng hôn,
tính ra là thời khắc mà lòng anh tĩnh tại nhất. Chỉ cần im lặng thôi,
không cần làm gì cả. Nghe tim mình nói, nghe lòng mình buông lời. Lời
của trái tim, ừ, là lời chân thật nhất.
Anh rời Bagan vào lúc bảy
giờ tối. Một ngày rong ruổi nơi bình yên và trầm mặc. Anh đi qua những
dấu chân ngựa buồn, những con đường đất đỏ bụi mù, những bóng cây cổ thụ
lá nhỏ xanh rì hai bên đường, những đền chùa nghìn năm, những gạch đất
trăm năm. Gương mặt thanaka rựng lên trong nắng sớm, ánh hoàng hôn nào
vừa tắt phía lưng đồi. Sau cơn mưa thu, anh gặp ánh cầu vồng, mùi đất đỏ
quyện với mùi xưa cũ, Bagan đẹp và buồn. Nếu cần tìm một chốn bình yên,
hãy đến Bagan. Bằng một cách nào đó, anh đã say với cái bình yên tĩnh
tại và buồn đến nao lòng của mảnh đất này. Có cánh chim nào vừa bay
ngang, chim rỉ tai anh, biểu thôi bữa nào bây rãnh thì ghé Bagan chơi,
để cho ngày đừng vội, để người được chậm rãi đi với người. Chớ thiệt
tình là ở Bagan là anh trôi. Tỉnh ra mới thấy tiếc, sao mà thời gian
nhanh quá vậy trời?
Những dấu chân ngựa vẫn buồn.
Như Bagan trăm nghìn năm vẫn vậy!
Mưa mùa thu giăng sương khói.
Sáng nay nhìn trời, thấy hồn khuyết đi một mảnh.
Như có mảnh hồn nào gửi theo giọt mưa thu Bagan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét